Theo Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, năm 2024 là năm “Phát triển kinh tế số với 4 trụ cột công nghiệp công nghệ thông tin, số hóa các ngành kinh tế, quản trị số, dữ liệu số”, phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế số nền tảng từ 20-25% và tổng doanh thu lĩnh vực này đạt 40 tỷ USD, từ đó tạo đà cho các mục tiêu chiến lược năm 2025 đề ra trong Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số của Việt Nam.
Từ những điểm sáng trong năm
2023…
Năm 2023 là một năm đầy thách thức cho kinh tế thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, xung đột quốc
tế, chính sách tiền tệ và tăng giá hàng hóa. Ngoài ra, còn có những khó khăn
mới như xung đột ở Trung Đông, lệnh cấm xuất khẩu và sự “an ninh hóa” và “vũ
khí hóa” các công cụ thương mại.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), GDP năm 2023 chỉ đạt 2,6% (thấp
hơn mức 3% năm 2022) và tiếp tục chậm lại vào năm 2024 với mức tăng 2,4% trong
năm 2024 khi Mỹ và Trung Quốc tăng trưởng chậm. Cùng với đó, lạm phát (CPI)
giảm từ mức đỉnh 8,6% năm 2022 xuống còn 5% cuối năm 2023.
Tuy nhiên, năm 2023 cũng là năm bùng nổ của các công nghệ mới,
đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI). AI đã trở thành
một lĩnh vực chiến lược, thu hút sự quan tâm và thảo luận của xã hội về cơ hội,
tác động và hợp tác quốc tế.
Trong khu vực
hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn là điểm sáng, với việc thúc đẩy các
Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) và nâng cao độ độc lập và tự chủ kinh tế. Theo
báo cáo của Tổng cục Thống kê, kinh tế Việt Nam đã phục hồi tăng trưởng trong
nửa cuối năm 2023, GDP năm 2023 tăng 5,05%, thấp hơn mục tiêu, nhưng có sự cải
thiện giữa các quý, lạm phát được kiểm soát ở mức 3,25%. Lĩnh vực doanh nghiệp
đã có sự cơ cấu lại, với số lượng doanh nghiệp mới đăng ký đạt mức kỷ lục, tăng
4,6% so với dự kiến. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng 6,2%, với khu
vực nhà nước có tăng trưởng nhanh nhất.
Đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) vẫn là điểm sáng, với tổng vốn FDI đăng ký và
thực hiện đạt gần 36,6 tỷ USD và 23,18 tỷ USD. Kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt
683 tỷ USD, với cán cân thương mại dương 28 tỷ USD. Cả xuất khẩu và nhập khẩu
giảm, nhưng có sự cải thiện vào cuối năm, đặc biệt từ các FTA.
Về những dự báo
kinh tế 2024, thách thức và rủi ro chính trong năm 2024, xung đột chính trị
toàn cầu tiếp tục diễn biến phức tạp, điều này gây gia tăng cạnh tranh chiến
lược giữa các quốc gia lớn.
Ngoài ra, sự
suy thoái của một số ngân hàng ở Mỹ và Thụy Sỹ, tình trạng tăng cao của nợ công
và nợ tư, cùng với rủi ro thị trường tài chính và tiền tệ toàn cầu, đồng thời
có sự gia tăng đáng kể về rủi ro nợ xấu và sự vỡ nợ. Các mối đe dọa về an ninh
năng lượng và an ninh lương thực vẫn còn tồn tại, trong khi giá cả, lạm phát và
lãi suất toàn cầu giảm nhẹ nhưng vẫn duy trì ở mức đáng kể, đồng thời rủi ro về
tài chính và tiền tệ gia tăng, làm chậm quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu.
Tình hình này gây ảnh hưởng tiêu cực đến các lĩnh vực như xuất khẩu, đầu tư,
tiêu dùng, du lịch quốc tế và thị trường tài chính tại Việt Nam.
Để tạo đà tăng
trưởng cho năm 2024, Việt Nam cần tập trung vào việc củng cố và làm mới các
động lực tăng trưởng hiện có, đồng thời chú trọng vào việc cơ cấu lại nền kinh
tế sau thời kỳ suy thoái kéo dài do đại dịch, và thực hiện các biện pháp khẩn
cấp để khắc phục tình trạng yếu kém trong doanh nghiệp và dự án.
Về dự báo tình
hình phát triển kinh tế Việt Nam năm 2024, báo cáo “Kinh tế Việt Nam năm 2023
và triển vọng năm 2024: Cải cách để tăng tốc phục hồi tăng trưởng” đưa ra 2
kịch bản dự báo cho năm 2024, với tăng trưởng kinh tế có thể đạt 6,13% và
6,48%. Xuất khẩu, thặng dư thương mại và lạm phát cũng được dự báo ở mức khả
quan.
Kịch bản tích
cực đòi hỏi các giải pháp chính sách cải cách nền tảng kinh tế vĩ mô, tăng
cường cải cách môi trường kinh doanh, hỗ trợ mô hình kinh tế mới, và cải cách
thể chế. Các chuyên gia nhấn mạnh vai trò của thể chế và năng suất lao động
trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời đề cập đến những thách thức
từ biến động kinh tế thế giới.
Kịch bản tích
cực còn nhấn mạnh đến việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển các mô hình
kinh tế mới, và cải cách môi trường kinh doanh. Chính phủ cũng đề xuất giải
quyết những thách thức như nợ đọng văn bản, kỷ luật, khó khăn trong hấp thụ
vốn, nhằm tạo động lực cho phục hồi tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Tốc độ phát
triển kinh tế số Việt Nam tiếp tục dẫn đầu Đông Nam Á
Theo kết quả
đo lường của Tổng cục Thống kê, tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong
GDP năm 2023 là 12,33%, trong đó ngành kinh tế số lõi đóng góp 7,42% (chiếm
60,19%), số hóa các ngành khác đóng góp 4,91% (chiếm 39,81%).
Tỷ trọng kinh
tế số trong GDP Việt Nam có xu hướng tăng trưởng trong giai đoạn 2020-2023. Năm
2020, tỷ trọng này là 12,66%; năm 2021 là 12,87%; năm 2022 là 12,63%. Tuy
nhiên, năm 2023, tỷ trọng kinh tế số trong GDP có dấu hiệu giảm nhẹ, chỉ đạt
12,33%.
Nguyên nhân là
do ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (chiếm
khoảng hơn 30% tổng giá trị tăng thêm của hoạt động kinh tế số) giảm do nhu cầu
thế giới giảm.
Bên cạnh đó,
ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến các hoạt động kinh tế, xã hội bị gián đoạn,
dẫn đến sự sụt giảm của một số ngành kinh tế số như thương mại điện tử, du lịch
trực tuyến,...
Dù vậy, tỷ
trọng kinh tế số trong GDP Việt Nam vẫn ở mức cao so với các nước trong khu
vực. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, tỷ trọng kinh tế số trong GDP của
Việt Nam cao hơn so với Thái Lan (12,1%), Indonesia (8,3%), Philippines (6,9%),
Singapore (17,3%), Malaysia (23,1%).
Cuối năm 2023,
Bộ Thông tin và Truyền thông đã công bố kết quả chuyển đổi số quốc gia với 62
mục tiêu đề ra. Trong số này, 18 mục tiêu đã được hoàn thành, chiếm 29%, 27 mục
tiêu có khả năng hoàn thành cao (43,5%), và 17 mục tiêu còn lại đang đòi hỏi nỗ
lực tập trung để hoàn thành đúng hạn (27,5%). Kế hoạch năm 2023 đặt ra 126
nhiệm vụ, trong đó đã hoàn thành 102 nhiệm vụ, đạt tỷ lệ 81%.
Trong lĩnh vực
sáng tạo và chuyển đổi số, Việt Nam tiếp tục đứng trong nhóm 50 nước dẫn đầu
với thứ hạng 46 trong Chỉ số Đổi mới Sáng tạo của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế
giới năm 2023, tăng 2 bậc so với năm 2022.
Google cũng đã
đánh giá tốc độ phát triển kinh tế số của Việt Nam là nhanh nhất Đông Nam Á
trong hai năm liên tiếp (28% vào năm 2022 và 19% vào năm 2023), vượt gấp 3,5
lần tốc độ tăng trưởng GDP. Tổng doanh thu từ thị trường nước ngoài của hơn
1.500 doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đạt 7,5 tỷ USD, tăng 4% so với năm
2022.
Việt Nam cũng
nằm trong nhóm 10 nước dẫn đầu về số lượng lượt tải mới ứng dụng di động trong 2
năm liên tiếp, với tăng trưởng 46% người dùng trên các nền tảng số.
Các cơ quan và
bộ ngành đã thành công trong việc đơn giản hóa 2.500 quy định kinh doanh và
528/1.086 thủ tục hành chính liên quan đến công dân, tăng cường kết nối và chia
sẻ dữ liệu để giải quyết hiệu quả các vấn đề liên ngành.
Với tốc độ
tăng trưởng như hiện nay, kinh tế số Việt Nam có thể đạt mục tiêu 20% GDP vào
năm 2025. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần có sự phối hợp đồng bộ của
các cơ quan, doanh nghiệp, người dân trong việc đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng
dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội
Kỳ vọng vào
năm Rồng
Theo Ủy ban
Quốc gia về chuyển đổi số, năm 2024 là năm “Phát triển kinh tế số với 4 trụ cột
công nghiệp công nghệ thông tin, số hóa các ngành kinh tế, quản trị số, dữ liệu
số - Động lực quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững”.
Chỉ tiêu được
đặt ra trong lĩnh vực kinh tế số năm 2024 với tổng doanh thu lĩnh vực kinh tế
số nền tảng đạt 40 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng kinh tế số nền tảng từ 20-25%. Tỷ
lệ đóng góp của tổng các cấu phần kinh tế số vào GDP đạt từ 19%-20%. Tỷ trọng
kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt 7,5%.
Định hướng đến năm 2025, kinh tế
số chiếm trên 20% GDP cả nước, tăng trưởng từ 20% - 25%/năm, gấp 3 lần tăng
trưởng GDP. Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%.
Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số của
Việt Nam đã chính thức đặt ra những mục tiêu quan trọng nhằm thúc đẩy sự chuyển
đổi số trong xã hội và kinh tế, đồng thời tạo ra cơ hội và thách thức mới.
Chiến lược này đã xác định rõ những mục tiêu cụ thể đến năm 2024:
Phát triển Dữ liệu Số: Xây dựng Cơ sở Dữ liệu
Quốc gia về người dân, doanh nghiệp, và đất đai, đạt 100% đối với mỗi lĩnh vực.
Phát triển Định danh Số: Đạt tỷ lệ 70% dân số sở
hữu danh tính số, với mỗi danh tính phát sinh trung bình 100 lượt sử dụng mỗi
năm.
Phát triển Thanh toán Số: Tỷ lệ người dân có tài khoản
thanh toán điện tử đạt 80%, với 50% thanh toán thương mại điện tử không sử dụng
tiền mặt. Tỷ lệ thanh toán hóa đơn điện, nước không sử dụng tiền mặt đạt 75%.
Phát triển Kỹ năng Số: Đào tạo kỹ năng số cho 70%
công nhân tuyển dụng mới và đào tạo lại. Tỷ lệ nông dân được đào tạo về kỹ năng
số cơ bản đạt tối thiểu 50%. 100% học sinh phổ thông và sinh viên được đào tạo
kỹ năng số.
Phát triển Nhân lực Số: Tỷ lệ học sinh phổ thông tiếp cận STEM/STEAM đạt
70%. Đưa vào hoạt động 5 đại học số thí điểm. Tổng số nhân lực công nghệ số Việt
Nam đạt 1,5 triệu người.
Việt Nam, với quy mô dân số lớn
và sự thích ứng nhanh chóng của người dân với công nghệ mới, có cơ hội lớn để
thúc đẩy kinh tế số và xã hội số theo lộ trình của chiến lược quốc gia. Đây sẽ
đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.